Công đoàn cấp trên cơ sở
CÁCH LÀM HAY TỪ CƠ SỞ (14.03.2023 16:54)
“Thời cơ, thách thức và giải pháp nâng cao chất lượng công tác khám chữa bệnh tại đơn vị” tại CĐCS Trung tâm Y tế huyện Đắk Mil
Thời cơ
Đắk Mil có vị trí địa lý thuận lợi, giao thông thận tiện với so với các huyện trong tỉnh, có tuyến đường Quốc lộ 14 xuyên dài và có đường biên giới giáp với nước bạn Campuchia…nên có tiềm năng phát triển thành Trung tâm y khoa của tỉnh. Sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của Sở Y tế, các phòng chức năng của Sở, các đơn vị y tế tuyến tỉnh, của Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân huyện. Sự phối kết hợp triển khai thực hiện nhiệm vụ của các ban, ngành, đoàn thể, chính quyền địa phương. Sự đoàn kết thống nhất của tập thể trong bệnh viện, đặc biệt là Ban giám đốc, trưởng, phó các khoa, phòng, cùng với đội ngũ cán bộ công nhân viên của đơn vị trẻ, năng động, ham học hỏi sẽ giúp đơn vị ngày một phát triển. Đời sống người dân trong tỉnh nói riêng và các khu vực lân cận nói chung ngày càng được cải thiện, tình hình kinh tế cá nhân tốt hơn dẫn đến nhu cầu chăm sóc sức khỏe cao hơn. Bên cạnh đó, người dân các khu vực huyện lân cận và nước bạn Campuchia ngày đến khám bệnh một tăng hơn so với những năm trước đó. Đơn vị được sự giúp đỡ thực hiện về chuyên môn của các đơn vị tuyến trên đang thực hiện các chương trình như: Đề án 1816, Đề án Bệnh viện vệ tinh, Chương trình hợp tác Y tế, chương trình khám chữa bệnh từ xa với các bệnh viện tuyến Trung ương. Cơ hội để cán bộ, viên chức y tế nâng cao tay nghề, phát huy hết năng lực nhờ được đầu tư nguồn lực tốt hơn, chất lượng khám chữa bệnh được nâng cao, tạo niềm tin cho ngươi bệnh yên tâm khi đến khám chữa bệnh tại đơn vị, giảm chuyển tuyến trên, giảm chi phí chi trả cho khám chữa bệnh của người dân. Nhờ phát triển được các danh mục kỹ thuật mới, chất lương cao, thu hút bệnh nhân đến khám chữa bệnh, từ đó nguồn thu tăng, cơ hội để Bệnh viện tiến tới tự chủ 100% nguồn thu thường xuyên, giảm gánh nặng về chi ngân sách nhà nước. Đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ y tế được cải thiện để cán bộ, viên chức yên tâm công tác và gắn bó lâu dài với đơn vị cũng như từng bước phát triển đến năm 2025 đơn vị nâng hạng lên BV đa khoa hạng II.
Vì vậy trong những năm qua, số lượng bệnh nhân đến khám và điều trị tại đơn vị ngày một tăng lên nhất là công tác khám chữa bệnh BHYT; sự hài lòng của người bệnh cũng có sự chuyển biến rõ rệt hàng năm đạt trên 90%; góp phần hoàn thành các chỉ tiêu chuyên môn được giao hàng năm. Cùng với đó, sau khi đại dịch được khống chế, kiểm soát dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ, Ban giám đốc TTYT huyện Đăk Mil cùng với sự đoàn kết, phối hợp thực hiện nhiệm vụ của toàn thể cán bộ, viên chức, người lao động đơn vị và sự tin tưởng của người bệnh đối với TTYT thì kết quả thực hiện nhiệm vụ của đơn vị đều đạt và vượt chỉ tiêu được giao, cụ thể các chỉ tiêu như sau: trong năm 2022, tổng số bệnh nhân đến khám chữa bệnh: 102.104 lượt, tăng 2.6% so với năm 2021, trong đó: Tổng số bệnh nhân đến khám chữa bệnh tại TTYT: 87.789 lượt, tăng 2.4% so với năm 2021; tổng số bệnh nhân đến khám chữa bệnh tại tuyến TYT: 14.315 lượt, tăng 4.1% so với năm 2021. Số ngày điều trị trung bình/01 bệnh nhân 4.7 ngày, giảm 0.2 ngày so với năm 2021 khi phân tích kết quả điều trị tương thích với số ngày điều trị TB. (Tổng số BN khỏi+ đỡ, giảm: 9005/10.476= 85,96%; Tổng số BN không thay đổi: 1.025/10/476= 9,87%; Tổng số BN 437/10.476= 4,17%).

Người dân đến thăm khám tại TTYT huyện Đăk Mil
Thách thức
Xã hội hóa y tế ngày càng mở rộng, thu hút sự đầu tư của y tế tư nhân. Trong đó có bệnh viện Xuyên Á tại huyện Cư Jut, mặt khác trên địa bàn huyện Đắk Mil có 02 phòng khám, chữa bệnh BHYT cũng là một thách thức lớn cho đơn vị. Việc thông tuyến khám, chữa bệnh nội trú giữa các bệnh viện cùng hạng cũng làm ảnh hưởng đến việc thu dung người bệnh. Kết hợp với hệ thống hạ tầng giao thông ngày càng thuận tiện, nhiều người bệnh vượt tuyến đến các trung tâm, bệnh viện lớn của tỉnh Đắk Lắk hoặc TP. Hồ Chí Minh để điều trị. Trang thiết bị cần có chính sách hợp lý từ nhiều nguồn (nhà nước đầu tư, xã hội hóa, cung cấp từ các Dự án, chương trình), nhanh chóng có các trang thiết bị hiện đại phục vụ cho công tác khám, chữa bệnh. Trang thiết bị cũ kỹ và lạc hậu, nguồn kinh phí để mua sắm các TTB hiện đại không có, do quá đắt, phải chờ kinh phí từ các nguồn xã hội hoá hoặc các dự án. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ sau đại học còn thiếu do còn phụ thuộc vào nguồn ngân sách nhà nước hoặc dự án. Bên cạnh đó cơ chế thị trường phần nào có tác động đến nhận thức, trách nhiệm xã hội của cán bộ y tế, do đó ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế cũng như sự công bằng trong CSSK nhân dân. Cơ cấu nhân lực chưa hợp lý. Một số khoa còn thiếu nhân lực y tế nhất là cán bộ có trình độ sau đại học. Số thầy thuốc trình độ chuyên môn sâu còn ít và chưa đồng đều, còn thiếu các chuyên gia sâu trong một số lĩnh vực. Cơ cấu giá dịch vụ kỹ thuật được xây dựng đã lâu, đến nay không còn phù hợp, dẫn đến một số dịch vụ kỹ thuật thu không đủ bù chi dẫn đến việc mất cân đối thu – chi, ảnh hưởng đến hoạt động tài chính của đơn vị. Thuốc –Vật tư y tế tiêu hao gặp nhiều khó khăn trong cung ứng, thuốc dùng cho tuyến huyện còn nhiều danh mục chưa đáp ứng nhu cầu điều trị. Hệ thống văn bản pháp lý còn nhiều bất cập, chồng chéo khó thực hiện, đặc biệt là công tác đấu thầu mua sắm thuốc, hóa chất, VTYT, TTBYT, sửa chữa, bảo trì bảo dưỡng TTBYT nên một số TTB buộc phải ngừng hoạt động vì hư hỏng, thiếu hóa chất, vật tư,…

TTYT huyện Đăk Mil áp dụng nhiều thiết bị kỷ thuật tiên tiến trong điều trị bệnh nhân
Việc thanh quyết toán khám chữa bệnh BHYT còn nhiều khó khăn, bất cập chưa được giải quyết. Việc tính tổng mức thanh toán trong khám chữa bệnh BHYT chưa phù hợp, dẫn đến đơn vị không được quỹ BHXH thanh toàn khi bệnh nhân đến khám tăng, triển khai nhiều dịch vụ kỹ thuật mới, kinh phí cao dẫn đến nguy cơ đơn vị bị xuất toán kinh phí khám chữa bệnh BHYT, thiếu hụt nguồn thu. Từ đó gây sự rụt rè trong công tác thực hiện quy chế chuyên môn tại đơn vị như: Tỷ lệ chỉ định cận lâm sàng còn thấp, một số thuốc điều trị có các Thông tư mang tính điều kiện trong KCB… độ chính sách cho cán bộ y tế như chế độ tiền lương, phụ cấp đặc thù ngành chưa được đảm bảo ảnh hưởng đến đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ y tế, làm cho cán bộ, viên chức chưa thể an tâm công tác và gắn bó lâu dài với đơn vị.
Đời sống kinh tế chưa đồng đều, giàu nghèo, kinh tế và trình dộ dân trí của người dân còn khá thấp ở những vùng sâu vùng xa. Việc thu hút, đầu tư từ bên ngoài còn hạn chế. Cơ chế, chính sách đối với ngành Y tế còn nhiều bất cập. Sức thu hút nguồn nhân lực y tế về huyện rất khó khăn.
Các giải pháp khắc phục để nâng cao chất lượng khám chữa bệnh tại đơn vị
Một là: Rà soát, đề xuất phê duyệt và triển khai một số dịch vụ kỹ thuật lâm sàng và cận lâm sàng mới được phê duyệt như: phẫu thuật nội sản phụ khoa; Siêu âm tim; Xét nghiêm miễn dịch, điện não đồ; chạy thận nhân tạo; C-Amr;
Hai là: Hàng năm xây dựng và triển khai các quy trình, quy định, hướng dẫn chẩn đoán, điều trị về chuyên môn của đơn vị và Bộ Y tế ban hành, phù hợp với điều kiện thực tế tại đơn vị, việc chỉ định các DV kỹ thuật theo đúng tình trạng bệnh lý của người bệnh và quy định tại Thông tư 35/TT-BYT; 100% NVYT thực hiện chuyên môn phải có chứng chỉ hành nghề; thực hiện thường xuyên kiểm tra đánh giá việc thực hiện các quy trình và phác đồ điều trị đó thông qua các bảng kiểm; đánh giá chất lượng và cải tiến các quy trình, quy định chuyên môn;
Ba là: Chuyên biệt hóa các phòng khám, sắp xếp các nhân lực theo đúng chuyên môn, phù hợp với năng lực công tác để chuyên sâu hơn nữa về chuyên môn. Tiếp tục thực hiện Khám chữa bệnh ngoài giờ (khám bệnh thứ bảy và chủ nhật). Duy trì công tác Kê đơn thuốc phải đúng quy chế kê đơn, việc kê đơn điện tử. Thời gian nằm viện hợp lý, không trì hoãn xuất viện, tăng cường điều trị trong ngày thay vì nhập viện điều trị nội trú (đối với những bệnh lý có chỉ định điều trị trong ngày).
Bốn là: Tổ Công tác xã hội tại đơn vị được kiện toàn và được triển khai hoạt động có hiệu quả qua các nội dung hỗ trợ người bệnh khi đến khám và điều trị tại Trung tâm nhằm rút ngắn thời gian khám và thực hiện các dịch vụ y tế. Đảm bảo cung ứng thuốc, vật tư y tế tiêu hao, hóa chất xét nghiệm cho Trung tâm cũng như các trạm y tế xã đầy đủ, không để tình trạng thiếu thuốc xảy ra. Phân bổ tỷ lệ hợp lý giữa các nhóm thuốc, vật tư y tế có chi phí cao và chi phí thấp trong hoạt động đấu thầu, mua sắm của đơn vị;
Năm là: Thực hiện tin học hóa và công nghệ hóa thông tin, ứng dụng CNTT phục vụ công tác KCB cho cả nhân viên và người bệnh, trong đó phải đảm bảo sử dụng phần mềm liên thông KCB BHYT để ngăn chặn hành vi lạm dụng KCB BHYT và chuyển dữ liệu lên cổng thanh toán KCB BHXH đúng theo quy định.
Sáu là: Cân đối nguồn kinh phí, chủ động lập kế hoạch mua sắm trình Sở Y tế kịp thời ưu tiên cho các TTB dụng cụ cần thiết tối ưu; đồng thời với đó là Kế hoạch quản lý, bảo trì bảo dưỡng TTB hằm mục đích tăng cường công năng hoạt động của các TTB; Từng bước hiện đại hoá trang thiết bị y tế đủ để đáp ứng nhiệm vụ chuyên môn. Đầu tư mới trang thiết bị để thay thế một số trang thiết bị y tế đã sử dụng lâu năm (hết khấu hao), thường xuyên hư hỏng, chi phí sửa chữa lớn, không hiệu quả.
Bảy là: Tiếp tục đào tạo và đào tạo chuyên sâu các chuyên ngành còn thiếu như CKI Nhi, HSCC, Mắt.. đồng thời thực hiện chính sách thu hút, đãi ngộ nhân lực có trình độ chuyên môn cao về làm việc tại đơn vị; Tăng cường kiểm tra, giám sát, hướng dẫn thực hiện công tác khám chữa bệnh tại các khoa, phòng, TYT nhất là công tác KCB BHYT; nâng cao vai trò, trách nhiệm của Tổ giám định KCB BHYT trong đơn vị;
Tám là: Nâng cao y đức, đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của nhân viên y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh.
Bích Ngọc
Các tin khác
|
|
|
Thống kê truy cập
Thống kê truy câp: